Hoá xạ trị đồng thời là gì? Các công bố khoa học về Hoá xạ trị đồng thời
Hoá xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư được sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả của liệu pháp xạ trị. Phương pháp này kết hợp việc sử dụng thuốc ...
Hoá xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư được sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả của liệu pháp xạ trị. Phương pháp này kết hợp việc sử dụng thuốc hoá trị (chẳng hạn như hóa chất hoặc thuốc tạo hình) với việc tiến hành xạ trị.
Qua việc sử dụng thuốc hoá trị cùng lúc với xạ trị, hoá xạ trị đồng thời có các lợi ích như:
1. Tăng cường tác động: Thuốc hoá trị có thể làm tăng cường tác động chống lại tế bào ung thư, đồng thời tác động từ xạ trị cũng được cung cấp.
2. Sự phối hợp tác động: Khi sử dụng thuốc hoá trị đồng thời với xạ trị, có thể xây dựng sự phối hợp tác động giữa hai phương pháp này, làm giảm tổn thương tới mô xung quanh và tăng khả năng tiếp cận các tế bào ung thư khó tiếp cận bằng một phương thức duy nhất.
3. Ngăn ngừa sự tái phát: Việc sử dụng thuốc hoá trị cùng lúc với xạ trị có thể giúp ngăn ngừa sự tái phát của bệnh ung thư sau quá trình điều trị.
Tuy nhiên, hoá xạ trị đồng thời cũng có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng và yêu cầu quá trình điều trị kỹ càng, được thiết kế và theo dõi bởi các chuyên gia y tế. Mục đích cuối cùng là cung cấp một phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân.
Hoá xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư kết hợp giữa việc sử dụng thuốc hoá trị và xạ trị trong cùng một thời gian. Phương pháp này nhằm tối đa hóa hiệu quả điều trị và giảm sự phát triển của tế bào ung thư.
Thuốc hoá trị được sử dụng trong hoá xạ trị đồng thời có thể có nhiều dạng, bao gồm:
1. Hóa chất hoá trị: Đây là các loại thuốc được thiết kế để tác động vào tế bào ung thư và ngăn chặn sự phát triển của chúng. Các loại thuốc này có thể phá hủy tế bào ung thư hoặc ngăn chặn quá trình phân chia tế bào.
2. Thuốc tạo hình: Đây là các loại thuốc được sử dụng để làm tăng sự nhạy cảm của tế bào ung thư đối với xạ trị. Thuốc tạo hình giúp tạo ra điều kiện tốt hơn cho xạ trị có thể tiếp cận và tiêu diệt tế bào ung thư một cách hiệu quả hơn.
Trong quá trình hoá xạ trị đồng thời, xạ trị và thuốc hoá trị được thiết kế để hoạt động cùng nhau nhằm tác động vào tế bào ung thư từ nhiều góc độ khác nhau. Sự kết hợp này có thể đạt được một số lợi ích như sau:
1. Tác động tăng cường: Sự kết hợp giữa thuốc hoá trị và xạ trị tạo ra tác động tương tự như tác động đa tác nhân. Thuốc hoá trị có thể làm tăng cường tác động của xạ trị bằng cách tấn công và làm suy yếu tế bào ung thư từ nhiều phía.
2. Phối hợp tác động: Khi sử dụng thuốc hoá trị đồng thời với xạ trị, có thể tạo ra một phối hợp tác động giữa hai phương pháp này. Điều này giúp tăng khả năng tiếp cận các tế bào ung thư khó tiếp cận bằng một phương thức duy nhất. Ví dụ, thuốc hoá trị có thể làm giảm kích thước của khối u, làm mềm khối u và làm tăng khả năng tiếp cận của xạ trị tới các vùng khối u.
3. Ngăn ngừa sự tái phát: Một lợi ích quan trọng của hoá xạ trị đồng thời là khả năng ngăn ngừa sự tái phát của bệnh ung thư sau quá trình điều trị. Sự kết hợp của xạ trị và thuốc hoá trị có thể giúp tiêu diệt tế bào ung thư tồn dư sau xạ trị, ngăn chặn sự phát triển lại của bệnh.
Tuy nhiên, hoá xạ trị đồng thời cũng có thể tiềm ẩn một số tác dụng phụ và yêu cầu sự quan tâm đến việc theo dõi và quản lý chặt chẽ. Các tác dụng phụ có thể bao gồm suy nhược cơ thể, tác dụng phụ của thuốc hoá trị, tác dụng phụ của xạ trị và tương tác giữa hai phương pháp. Vì vậy, quá trình điều trị cần được điều chỉnh và theo dõi kỹ lưỡng bởi các chuyên gia y tế.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hoá xạ trị đồng thời":
Yếu tố hoại tử khối u (TNF) là một cytokine tiền viêm quan trọng liên quan đến viêm xương khớp và thoái hóa ma trận khớp trong bệnh viêm khớp dạng thấp (RA). Chúng tôi đã nghiên cứu khả năng của adalimumab, một kháng thể đơn dòng kháng TNF, về việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc của khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng thể chất ở bệnh nhân RA đang điều trị đồng thời với methotrexate (MTX).
Trong thử nghiệm mù đôi, đối chứng với giả dược này diễn ra tại nhiều trung tâm kéo dài 52 tuần, 619 bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX đã được chọn ngẫu nhiên để dùng adalimumab 40 mg tiêm dưới da mỗi hai tuần một lần (n = 207), adalimumab 20 mg hàng tuần (n = 212), hoặc dùng giả dược (n = 200) cùng với MTX. Kết quả chính là tiến triển X-quang tại tuần 52 (điểm Sharp tổng thể theo phương pháp sửa đổi [TSS]), đáp ứng lâm sàng tại tuần 24 (cải thiện ít nhất 20% theo tiêu chí cốt lõi của American College of Rheumatology [ACR20]), và chức năng cơ thể tại tuần 52 (chỉ số khuyết tật của Bảng đánh giá sức khỏe [HAQ]).
Vào tuần 52, có sự tiến triển X-quang ít hơn đáng kể theo đo lường bằng sự thay đổi trong TSS ở những bệnh nhân dùng adalimumab 40 mg hai tuần một lần (thay đổi trung bình ± SD 0.1 ± 4.8) hoặc 20 mg mỗi tuần (0.8 ± 4.9) so với nhóm giả dược (2.7 ± 6.8) (
Trong thử nghiệm kéo dài 52 tuần này, adalimumab cho thấy hiệu quả hơn so với giả dược trong việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng cơ thể ở bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX.
Đánh giá tính khả thi của việc hóa trị và chiếu xạ đồng thời (chemoRT) tiếp theo là phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển tại chỗ trong một môi trường hợp tác nhóm, và ước lượng tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ cắt bỏ, các mẫu tái phát và tỷ lệ sống sót cho các nhóm giai đoạn IIIA(N2) so với IIIB.
Yêu cầu cần có bằng chứng sinh thiết của hạch N2 dương tính (IIIAN2) hoặc hạch N3 hoặc tổn thương chính T4 (IIIB). Tiến hành hai chu kỳ hóa trị với cisplatin và etoposide cùng với xạ trị ngực đồng thời đến 45 Gy. Việc cắt bỏ được tiến hành nếu có phản ứng hoặc bệnh ổn định xảy ra. Đưa ra thêm một liều hóa trị xạ trị nếu phát hiện bệnh không thể cắt bỏ hoặc có các bờ hoặc hạch dương tính.
Thời gian theo dõi trung bình cho 126 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn [75 giai đoạn IIIA(N2) và 51 IIIB] là 2.4 năm. Tỷ lệ đáp ứng đối với điều trị kiềm chế là 59%, và 29% ổn định. Khả năng cắt bỏ là 85% cho nhóm IIIA(N2) đủ điều kiện phẫu thuật và 80% cho nhóm IIIB. Độc tính cấp độ 4 có thể hồi phục đã xảy ra ở 13% số bệnh nhân. Có 13 ca tử vong liên quan đến điều trị (10%) và 19 trường hợp khác (15%) tử vong không liên quan đến độc tính hoặc khối u. Trong số 65 ca tái phát, 11% chỉ là tại chỗ khu vực và 61% chỉ là di căn xa. Có 26 trường hợp tái phát não, trong đó 19 trường hợp là nơi hoặc nguyên nhân duy nhất gây tử vong. Không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót (P = .81) giữa giai đoạn IIIA(N2) và giai đoạn IIIB (thời gian sống trung bình, 13 và 17 tháng; tỷ lệ sống sau 2 năm, 37% và 39%; tỷ lệ sống sau 3 năm, 27% và 24%). Dự đoán mạnh nhất về tỷ lệ sống lâu dài sau phẫu thuật ngực là không có khối u ở các hạch trung thất trong quá trình phẫu thuật (thời gian sống trung bình, 30 so với 10 tháng; tỷ lệ sống sau 3 năm, 44% so với 18%; P = .0005).
Phương pháp ba phương thức này khả thi trong nghiên cứu của Southwest Oncology Group (SWOG), với tỷ lệ sống sót 3 năm đầy khích lệ là 26%. Hiện nay đang được tiến hành một nghiên cứu liên nhóm để xác định liệu phẫu thuật có thêm vào nguy cơ hay lợi ích của hóa trị xạ trị.
Nghiên cứu ARTIST (Điều trị hóa xạ trị bổ trợ trong ung thư dạ dày) là nghiên cứu đầu tiên mà theo chúng tôi biết đến để điều tra vai trò của hóa xạ trị bổ trợ hậu phẫu ở bệnh nhân mắc ung thư dạ dày đã được cắt bỏ hoàn toàn với nạo hạch D2. Nghiên cứu này được thiết kế để so sánh điều trị hậu phẫu bằng capecitabine cộng với cisplatin (XP) với XP cộng với Xạ trị capecitabine (XP/XRT/XP).
Nhánh XP nhận sáu chu kỳ XP (capecitabine 2,000 mg/m2 mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 14 và cisplatin 60 mg/m2 vào ngày đầu tiên, lặp lại mỗi 3 tuần) hóa trị. Nhánh XP/XRT/XP nhận hai chu kỳ XP sau đó là XRT 45-Gy (capecitabine 1,650 mg/m2 mỗi ngày trong 5 tuần) và hai chu kỳ XP.
Trong số 458 bệnh nhân, 228 được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP và 230 vào nhánh XP/XRT/XP. Điều trị được hoàn thành như kế hoạch đối với 75,4% bệnh nhân (172 trong số 228) trong nhánh XP và 81,7% (188 trong số 230) trong nhánh XP/XRT/XP. Tổng thể, việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS; P = .0862). Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân có di căn hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật (n = 396), bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP/XRT/XP có thời gian sống không bệnh vượt trội so với những người chỉ nhận XP (P = .0365), và ý nghĩa thống kê vẫn được giữ trong phân tích đa biến (ước tính tỷ lệ nguy cơ, 0.6865; 95% CI, 0.4735 đến 0.9952; P = .0471).
Việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật triệt căn và nạo hạch D2 trong ung thư dạ dày. Một thử nghiệm tiếp theo (ARTIST-II) trên bệnh nhân ung thư dạ dày dương tính với hạch bạch huyết đang được lên kế hoạch.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5