Hoá xạ trị đồng thời là gì? Các công bố khoa học về Hoá xạ trị đồng thời

Hoá xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư được sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả của liệu pháp xạ trị. Phương pháp này kết hợp việc sử dụng thuốc ...

Hoá xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư được sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả của liệu pháp xạ trị. Phương pháp này kết hợp việc sử dụng thuốc hoá trị (chẳng hạn như hóa chất hoặc thuốc tạo hình) với việc tiến hành xạ trị.

Qua việc sử dụng thuốc hoá trị cùng lúc với xạ trị, hoá xạ trị đồng thời có các lợi ích như:

1. Tăng cường tác động: Thuốc hoá trị có thể làm tăng cường tác động chống lại tế bào ung thư, đồng thời tác động từ xạ trị cũng được cung cấp.

2. Sự phối hợp tác động: Khi sử dụng thuốc hoá trị đồng thời với xạ trị, có thể xây dựng sự phối hợp tác động giữa hai phương pháp này, làm giảm tổn thương tới mô xung quanh và tăng khả năng tiếp cận các tế bào ung thư khó tiếp cận bằng một phương thức duy nhất.

3. Ngăn ngừa sự tái phát: Việc sử dụng thuốc hoá trị cùng lúc với xạ trị có thể giúp ngăn ngừa sự tái phát của bệnh ung thư sau quá trình điều trị.

Tuy nhiên, hoá xạ trị đồng thời cũng có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng và yêu cầu quá trình điều trị kỹ càng, được thiết kế và theo dõi bởi các chuyên gia y tế. Mục đích cuối cùng là cung cấp một phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân.
Hoá xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư kết hợp giữa việc sử dụng thuốc hoá trị và xạ trị trong cùng một thời gian. Phương pháp này nhằm tối đa hóa hiệu quả điều trị và giảm sự phát triển của tế bào ung thư.

Thuốc hoá trị được sử dụng trong hoá xạ trị đồng thời có thể có nhiều dạng, bao gồm:

1. Hóa chất hoá trị: Đây là các loại thuốc được thiết kế để tác động vào tế bào ung thư và ngăn chặn sự phát triển của chúng. Các loại thuốc này có thể phá hủy tế bào ung thư hoặc ngăn chặn quá trình phân chia tế bào.

2. Thuốc tạo hình: Đây là các loại thuốc được sử dụng để làm tăng sự nhạy cảm của tế bào ung thư đối với xạ trị. Thuốc tạo hình giúp tạo ra điều kiện tốt hơn cho xạ trị có thể tiếp cận và tiêu diệt tế bào ung thư một cách hiệu quả hơn.

Trong quá trình hoá xạ trị đồng thời, xạ trị và thuốc hoá trị được thiết kế để hoạt động cùng nhau nhằm tác động vào tế bào ung thư từ nhiều góc độ khác nhau. Sự kết hợp này có thể đạt được một số lợi ích như sau:

1. Tác động tăng cường: Sự kết hợp giữa thuốc hoá trị và xạ trị tạo ra tác động tương tự như tác động đa tác nhân. Thuốc hoá trị có thể làm tăng cường tác động của xạ trị bằng cách tấn công và làm suy yếu tế bào ung thư từ nhiều phía.

2. Phối hợp tác động: Khi sử dụng thuốc hoá trị đồng thời với xạ trị, có thể tạo ra một phối hợp tác động giữa hai phương pháp này. Điều này giúp tăng khả năng tiếp cận các tế bào ung thư khó tiếp cận bằng một phương thức duy nhất. Ví dụ, thuốc hoá trị có thể làm giảm kích thước của khối u, làm mềm khối u và làm tăng khả năng tiếp cận của xạ trị tới các vùng khối u.

3. Ngăn ngừa sự tái phát: Một lợi ích quan trọng của hoá xạ trị đồng thời là khả năng ngăn ngừa sự tái phát của bệnh ung thư sau quá trình điều trị. Sự kết hợp của xạ trị và thuốc hoá trị có thể giúp tiêu diệt tế bào ung thư tồn dư sau xạ trị, ngăn chặn sự phát triển lại của bệnh.

Tuy nhiên, hoá xạ trị đồng thời cũng có thể tiềm ẩn một số tác dụng phụ và yêu cầu sự quan tâm đến việc theo dõi và quản lý chặt chẽ. Các tác dụng phụ có thể bao gồm suy nhược cơ thể, tác dụng phụ của thuốc hoá trị, tác dụng phụ của xạ trị và tương tác giữa hai phương pháp. Vì vậy, quá trình điều trị cần được điều chỉnh và theo dõi kỹ lưỡng bởi các chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hoá xạ trị đồng thời":

Kết quả về hình ảnh X-quang, lâm sàng và chức năng của điều trị bằng adalimumab (kháng thể đơn dòng kháng yếu tố hoại tử khối u) ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động đang nhận điều trị đồng thời với methotrexate: Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược kéo dài 52 tuần Dịch bởi AI
Wiley - Tập 50 Số 5 - Trang 1400-1411 - 2004
Tóm tắtMục tiêu

Yếu tố hoại tử khối u (TNF) là một cytokine tiền viêm quan trọng liên quan đến viêm xương khớp và thoái hóa ma trận khớp trong bệnh viêm khớp dạng thấp (RA). Chúng tôi đã nghiên cứu khả năng của adalimumab, một kháng thể đơn dòng kháng TNF, về việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc của khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng thể chất ở bệnh nhân RA đang điều trị đồng thời với methotrexate (MTX).

Phương pháp

Trong thử nghiệm mù đôi, đối chứng với giả dược này diễn ra tại nhiều trung tâm kéo dài 52 tuần, 619 bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX đã được chọn ngẫu nhiên để dùng adalimumab 40 mg tiêm dưới da mỗi hai tuần một lần (n = 207), adalimumab 20 mg hàng tuần (n = 212), hoặc dùng giả dược (n = 200) cùng với MTX. Kết quả chính là tiến triển X-quang tại tuần 52 (điểm Sharp tổng thể theo phương pháp sửa đổi [TSS]), đáp ứng lâm sàng tại tuần 24 (cải thiện ít nhất 20% theo tiêu chí cốt lõi của American College of Rheumatology [ACR20]), và chức năng cơ thể tại tuần 52 (chỉ số khuyết tật của Bảng đánh giá sức khỏe [HAQ]).

Kết quả

Vào tuần 52, có sự tiến triển X-quang ít hơn đáng kể theo đo lường bằng sự thay đổi trong TSS ở những bệnh nhân dùng adalimumab 40 mg hai tuần một lần (thay đổi trung bình ± SD 0.1 ± 4.8) hoặc 20 mg mỗi tuần (0.8 ± 4.9) so với nhóm giả dược (2.7 ± 6.8) (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Ngoài ra, có sự thay đổi đáng kể trong thành phần của TSS. Tại tuần 24, 63% và 61% bệnh nhân trong nhóm adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần đã đạt đáp ứng ACR20, trong khi chỉ 30% bệnh nhân ở nhóm giả dược đạt được (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tại tuần 52, 59% và 55% nhóm adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần đã đạt đáp ứng ACR20, so với 24% nhóm giả dược (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tại tuần 52, chức năng cơ thể đo lường bằng HAQ cho thấy cải thiện đáng kể với adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần so với giả dược (thay đổi trung bình chỉ số HAQ là −0.59 và −0.61 so với −0.25; P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tổng cộng có 467 bệnh nhân (75.4%) hoàn tất 52 tuần điều trị. Adalimumab nhìn chung được dung nạp tốt. Các trường hợp ngừng điều trị xảy ra ở 22.0% bệnh nhân điều trị bằng adalimumab và 30.0% bệnh nhân điều trị bằng giả dược. Tỷ lệ biến cố nghiêm trọng và không nghiêm trọng tương tự nhau giữa nhóm adalimumab và giả dược, mặc dù tỷ lệ báo cáo nhiễm trùng nghiêm trọng cao hơn ở bệnh nhân nhận adalimumab (3.8%) so với giả dược (0.5%) (P ≤ 0.02), đặc biệt cao ở nhóm 40 mg hai tuần một lần.

Kết luận

Trong thử nghiệm kéo dài 52 tuần này, adalimumab cho thấy hiệu quả hơn so với giả dược trong việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng cơ thể ở bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX.

#Yếu tố hoại tử khối u #viêm khớp dạng thấp #adalimumab #methotrexate #liệu pháp đồng thời #đối chứng với giả dược #kháng thể đơn dòng #tiến triển cấu trúc khớp #chức năng cơ thể #thử nghiệm ngẫu nhiên #X-quang #ACR20 #HAQ.
Hóa trị đồng thời với cisplatin/etoposide và xạ trị ngực sau đó phẫu thuật điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIA (N2) và IIIB: kết quả trưởng thành của nghiên cứu pha II của Southwest Oncology Group 8805. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 13 Số 8 - Trang 1880-1892 - 1995
MỤC ĐÍCH

Đánh giá tính khả thi của việc hóa trị và chiếu xạ đồng thời (chemoRT) tiếp theo là phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển tại chỗ trong một môi trường hợp tác nhóm, và ước lượng tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ cắt bỏ, các mẫu tái phát và tỷ lệ sống sót cho các nhóm giai đoạn IIIA(N2) so với IIIB.

BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP

Yêu cầu cần có bằng chứng sinh thiết của hạch N2 dương tính (IIIAN2) hoặc hạch N3 hoặc tổn thương chính T4 (IIIB). Tiến hành hai chu kỳ hóa trị với cisplatin và etoposide cùng với xạ trị ngực đồng thời đến 45 Gy. Việc cắt bỏ được tiến hành nếu có phản ứng hoặc bệnh ổn định xảy ra. Đưa ra thêm một liều hóa trị xạ trị nếu phát hiện bệnh không thể cắt bỏ hoặc có các bờ hoặc hạch dương tính.

KẾT QUẢ

Thời gian theo dõi trung bình cho 126 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn [75 giai đoạn IIIA(N2) và 51 IIIB] là 2.4 năm. Tỷ lệ đáp ứng đối với điều trị kiềm chế là 59%, và 29% ổn định. Khả năng cắt bỏ là 85% cho nhóm IIIA(N2) đủ điều kiện phẫu thuật và 80% cho nhóm IIIB. Độc tính cấp độ 4 có thể hồi phục đã xảy ra ở 13% số bệnh nhân. Có 13 ca tử vong liên quan đến điều trị (10%) và 19 trường hợp khác (15%) tử vong không liên quan đến độc tính hoặc khối u. Trong số 65 ca tái phát, 11% chỉ là tại chỗ khu vực và 61% chỉ là di căn xa. Có 26 trường hợp tái phát não, trong đó 19 trường hợp là nơi hoặc nguyên nhân duy nhất gây tử vong. Không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót (P = .81) giữa giai đoạn IIIA(N2) và giai đoạn IIIB (thời gian sống trung bình, 13 và 17 tháng; tỷ lệ sống sau 2 năm, 37% và 39%; tỷ lệ sống sau 3 năm, 27% và 24%). Dự đoán mạnh nhất về tỷ lệ sống lâu dài sau phẫu thuật ngực là không có khối u ở các hạch trung thất trong quá trình phẫu thuật (thời gian sống trung bình, 30 so với 10 tháng; tỷ lệ sống sau 3 năm, 44% so với 18%; P = .0005).

KẾT LUẬN

Phương pháp ba phương thức này khả thi trong nghiên cứu của Southwest Oncology Group (SWOG), với tỷ lệ sống sót 3 năm đầy khích lệ là 26%. Hiện nay đang được tiến hành một nghiên cứu liên nhóm để xác định liệu phẫu thuật có thêm vào nguy cơ hay lợi ích của hóa trị xạ trị.

#ung thư phổi #hóa trị #xạ trị #phẫu thuật #NSCLC #IIIA(N2) #IIIB #SWOG #cisplatin #etoposide #nghiên cứu pha II
Thử nghiệm giai đoạn III so sánh capecitabine cộng với cisplatin với capecitabine cộng với cisplatin kết hợp với Xạ trị Capecitabine đồng thời trong ung thư dạ dày đã được phẫu thuật hoàn toàn với nạo hạch D2: Thử nghiệm ARTIST Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 30 Số 3 - Trang 268-273 - 2012
Mục đích

Nghiên cứu ARTIST (Điều trị hóa xạ trị bổ trợ trong ung thư dạ dày) là nghiên cứu đầu tiên mà theo chúng tôi biết đến để điều tra vai trò của hóa xạ trị bổ trợ hậu phẫu ở bệnh nhân mắc ung thư dạ dày đã được cắt bỏ hoàn toàn với nạo hạch D2. Nghiên cứu này được thiết kế để so sánh điều trị hậu phẫu bằng capecitabine cộng với cisplatin (XP) với XP cộng với Xạ trị capecitabine (XP/XRT/XP).

Bệnh nhân và phương pháp

Nhánh XP nhận sáu chu kỳ XP (capecitabine 2,000 mg/m2 mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 14 và cisplatin 60 mg/m2 vào ngày đầu tiên, lặp lại mỗi 3 tuần) hóa trị. Nhánh XP/XRT/XP nhận hai chu kỳ XP sau đó là XRT 45-Gy (capecitabine 1,650 mg/m2 mỗi ngày trong 5 tuần) và hai chu kỳ XP.

Kết quả

Trong số 458 bệnh nhân, 228 được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP và 230 vào nhánh XP/XRT/XP. Điều trị được hoàn thành như kế hoạch đối với 75,4% bệnh nhân (172 trong số 228) trong nhánh XP và 81,7% (188 trong số 230) trong nhánh XP/XRT/XP. Tổng thể, việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS; P = .0862). Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân có di căn hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật (n = 396), bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP/XRT/XP có thời gian sống không bệnh vượt trội so với những người chỉ nhận XP (P = .0365), và ý nghĩa thống kê vẫn được giữ trong phân tích đa biến (ước tính tỷ lệ nguy cơ, 0.6865; 95% CI, 0.4735 đến 0.9952; P = .0471).

Kết luận

Việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật triệt căn và nạo hạch D2 trong ung thư dạ dày. Một thử nghiệm tiếp theo (ARTIST-II) trên bệnh nhân ung thư dạ dày dương tính với hạch bạch huyết đang được lên kế hoạch.

#Hóa xạ trị bổ trợ #ung thư dạ dày #cắt bỏ D2 #capecitabine #cisplatin #ARTIST #thử nghiệm lâm sàng
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HÓA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRƯỚC PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG GIAI ĐOẠN II, III
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả hoá xạ trịđồng thời (HXTĐT) trước phẫu thuật (PT) trong điều trị (ĐT) ung thư trực tràng (UTTT) giai đoạn II, III đồng thời nhận xét một số tác dụng không mong muốn và độc tính của phương pháp ĐT này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 48 bệnh nhân (BN) UTTT giai đoạn II, III được xạ trị liều 50,4 Gy kết hợp hóa chất Capecitabine liều 825mg/m2 x 2 lần/ngày vào các ngày xạ trị, phẫu thuật được thực hiện sau kết thúc HXTĐT 4-6 tuần. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ sau điều trị đạt 83,4%. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật triệt căn trong đó 87,5% PT bảo tồn cơ thắt hậu môn. Đánh giá mô bệnh học của bệnh phẩm sau phẫu thuật: 25% đáp ứng hoàn toàn; 85,4% giảm giai đoạn u và 91,7% giảm giai đoạn hạch. Độc tính gặp chủ yếu ở độ 1: thiếu máu độ 1 là 39,6%, giảm số lượng bạch cầu hạt trung tính độ 1 là 6,3%. Các tác dụng không mong muốn khác hay gặp là viêm bàng quang độ 1 (20,8%) và viêm da do xạ trị độ 1 (37,5%). Không gặp độc tính độ 3,4. Kết luận: HXTĐT trước phẫu thuậtvới Capecitabine là phương pháp điều trị hiệu quả, an toàn và ít độc tính cho BN UTTT giai đoạn II, III.
#Hóa xạ trị #ung thư trực tràng #giai đoạn II #III
Đánh giá đáp ứng hoá xạ trị đồng thời ung thư vòm mũi họng tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng hoá xạ trị đồng thời ung thư vòm mũi họng tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương.  Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu có theo dõi trên 50 bệnh nhân ung thư vòm họng được hóa xạ trị đồng thời tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương. Thời gian điều trị từ năm 2019 đến năm 2022. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn chung là 92%; đáp ứng hoàn toàn tại u là 96%; đáp ứng hoàn toàn tại hạch là 95%. Các biến chứng cấp và mạn chủ yếu ở mức độ 2. Kết luận: Tỷ lệ đáp ứng chung điều trị hóa xạ trị ung thư vòm họng cao; tuy nhiên thời gian theo dõi chưa dài nên chưa đánh giá được tỷ lệ tái phát, di căn sau điều trị.
#Ung thư vòm họng #hóa xạ trị đồng thời
KẾT QUẢ XẠ TRỊ 3D-CRT VÀ VMAT TRONG HOÁ XẠ ĐỒNG THỜI UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả xạ trị bằng kỹ thuật 3D-CRT và VMAT ở bệnh nhân hoá xạ đồng thời ung thư thực quản tại bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 60 bệnh nhân điều trị hoá xạ đồng thời ung thư thực quản bằng kỹ thuật 3D-CRT và VMAT tại bệnh viện K từ tháng 5/2018 đến tháng 5/2021. Kết quả: Tuổi trung bình 54,4 ±7,0 (43-69). Tỷ lệ nam/nữ là 59/1. Tỷ lệ nuốt nghẹn 91,7%. Có 46 (76,7%) bệnh nhân giai đoạn T3, 14 (23,3%) bệnh nhân ở giai đoạn T4. Thể giải phẫu bệnh của các bệnh nhân là ung thư biểu mô vảy (100%). Các thông số bao phủ liều đến PTV (thể tích xạ kế hoạch – Planning target volume) của xạ trị VMAT so với 3D-CRT: V95: 98,4% - 94,35%, V110: 0,15% – 5,35%. Dmax tại tuỷ và da VMAT thấp hơn so với 3D-CRT. Liều tại phổi (V5,V20) và tại tim (V40) VMAT thấp hơn so với 3D-CRT.Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ sau hóa xạ trị là 48,3%, tỷ lệ đáp ứng 1 phần là 41,7%, tỷ lệ bệnh không đổi là 10%. Độc tính trên hệ huyết học là hạ bạch cầu (6%), hạ tiểu cầu (1,7%). Độc tính viêm da do xạ trị (58,4%), viêm thực quản do xạ trị (18,3%), độc tính viêm phổi do xạ trị (3,3%), không ghi nhận độc tính trên hệ tim mạch. Kết luận: Xạ trị ung thư thực quản bằng kỹ thuật VMAT và 3D-CRT cho kết quả tốt và an toàn, kỹ thuật VMAT cho thấy tập trung liều xạ tốt hơn và ít độc tính hơn kỹ thuật 3D-CRT.
#ung thư thực quản #hóa xạ trị đồng thời #kỹ thuật 3D-CRT #kỹ thuật VMAT
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HÓA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRIỆT CĂN UNG THƯ CỔ TỬ CUNG GIAI ĐOẠN III TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả hóa xạ trị đồng thời triệt căn ung thư cổ tử cung giai đoạn III tại bệnh viện K và một số tác dụng không mong muốn của phác đồ trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:  Nghiên cứu mô tả hồi cứu có theo dõi dọc trên 76 bệnh nhân ung thư cổ tử cung (UTCTC) giai đoạn III (FIGO 2018) tại bệnh viện K, được xạ trị khung chậu bằng kĩ thuật 3D-CRT đồng thời với hóa chất phác đồ Cisplatin hàng tuần, theo sau đó là xạ trị áp sát suất liều cao từ tháng 1/2017 đến  tháng 12/2018. Tiêu chí chính là tỷ lệ sống thêm không bệnh (DFS) 3 năm, tiêu chí phụ là các độc tính muộn của phác đồ. Kết quả: Tỷ lệ sống thêm không bệnh 3 năm là 67,5%. U xâm lấn âm đạo 1/3 dưới, đường kính ngắn hạch chậu ≥ 15mm, di căn hạch cạnh động mạch chủ bụng là các yếu tố độc lập liên quan đến DFS. Tỷ lệ độc tính muộn độ 1,2 và độ 3,4 trên tiêu hóa và tiết niệu lần lượt là 44,7%; 18,4%; 9,2%; 2,6%. Kết luận: Hóa xạ trị đồng thời triệt căn trên bệnh nhân UTCTC giai đoạn III với xạ trị áp sát suất liều cao đem lại tỷ lệ sống thêm không bệnh 3 năm khả quan trong khi các độc tính muộn trên hệ tiêu hóa, tiết niệu ở mức chấp nhận được.
#Ung thư cổ tử cung #giai đoạn III #hóa xạ đồng thời triệt căn #DFS 3 năm
XÂY DỰNG QUY TRÌNH ĐỊNH LƯỢNG ĐỒNG THỜI 9 CHẤT TỒN DƯ BẢO VỆ THỰC VẬT TRONG MỘT SỐ LOẠI RAU QUẢ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã xây dựng quy trình định lượng đồng thời 9 chất tồn dư bảo vệ thực vật trong một số loại rau quả như Difenoconazole, Hexaconazole, Emamectin benzoate, Indoxacard, Acetamiprid, Carbaryl, Ethoprophos, Dimethoat, Carbosulfan bằng phương pháp khối phổ (Mass Spectrometry-MS), tiến hành phân tích trên máy LC - MS/MS. Điều kiện trên LC gồm cột sắc ký: tốc độ dòng 0.1 mL/phút, thể tích tiêm 10 µL. Điều kiện trên MS/MS gồm Ion mode ESI (+), điện thế mao quản 2.5 kV, source Temp 1500C, desolvation temperature 3000C, desolvation gas flow 0.25 mL/min, cone gas flow OFF
#Difenoconazole #Hexaconazole #Emamectin benzoate #Indoxacard #Acetamiprid #Carbaryl #Ethoprophos #Dimethoat #Carbosulfan LC/MS/MS rau quả
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOÁ XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRIỆT CĂN UNG THƯ THỰC QUẢN GIAI ĐOẠN III SỬ DỤNG PHÁC ĐỒ PC HÀNG TUẦN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả hoá xạ trịđồng thời triệt căn (HXTĐTTC) trong điều trị (ĐT) ung thư thực quản (UTTQ) giai đoạn III đồng thời nhận xét một số tác dụng không mong muốn (TDKMM) của phương pháp ĐT này. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứutrên 42 bệnh nhân (BN) được xạ trị IMRT hoặc 3D – CRT (liều 50,4 Gy cho vùng thể tích dự phòng, 60 – 66 Gy cho vùng u và hạch nguyên phát) kết hợp hóa chất Paclitaxel – Carboplatin (PC) hàng tuần (liều Paclitaxel 50mg/m2, Carboplatin AUC 2pha truyền tĩnh mạch ngày 1, chu kỳ 7 ngày trong quá trình xạ trị), đánh giá kết quả điều trị trên lâm sàng, trên cắt lớp vi tính (CLVT) theo RECIST và tác dụng không mong muốn sau 4 tuần kể từ khi kết thúc điều trị. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng sau điều trị trên lâm sàng đạt 90,5%. Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 85,7%, trong đó đáp ứng hoàn toàn đạt tỷ lệ 33,3% và không có BN tiến triển sau điều trị trong thời gian theo dõi, đánh giá. Qua phân tích một số yếu tố liên quan đến đáp ứng điều trị bao gồm: giai đoạn T (T2 đáp ứng tốt hơn T3, p = 0,023), giai đoạn N (N1 đáp ứng tốt hơn N2, p = 0,001), kích thước u (kích thước u nhỏ đáp ứng tốt hơn kích thước u lớn, p = 0,033), kỹ thuật xạ trị (xạ trị bằng kỹ thuật IMRT cho hiệu quả tốt hơn kỹ thuật 3D – CRT, p = 0,006). TDKMM sớm hay gặp liên quan đến xạ trị bao gồm viêm da (61,9%), viêm thực quản (38,1%) và viêm phổi (11,9%) độ 1, độ 2. Hầu hết các TDKMM trên hệ huyết học, tiêu hoá, gan thận ở độ 1 và 2; chỉ gặp 2,4% bệnh nhân giảm bạch cầu độ 3. Kết luận: HXTĐTTC với phác đồ PC hàng tuần điều trị BN UTTQ giai đoạn III đảm bảo tốt kế hoạch điều trị, TDKMM chấp nhận được và hiệu quả điều trị tương đương với phác đồ CF.
#Hóa xạ trị đồng thời triệt căn #ung thư thực quản giai đoạn III
Tổng số: 58   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6